Thi học kì lớp 7

Đọc hiểu thi học kì lớp 7: Mùa phơi sân trước

Các câu hỏi xoay quanh truyện ngắn Mùa phơi sân trước

Danh sách câu hỏi

✍️ Câu 1: Hình ảnh “giàn phơi” trong văn bản mang ý nghĩa gì về đời sống người dân quê?

Giàn phơi là biểu tượng của sự cần cù, sáng tạo trong đời sống sinh hoạt của người dân quê. Nó không chỉ là nơi phơi đồ dùng mà còn là không gian lưu giữ những món ăn truyền thống, gắn liền với nhịp sống mùa vụ và lễ Tết.

✍️ Câu 2: Vì sao tác giả lại nói “Tâm hồn mệt nhoài với những món ăn cực kì mời gọi trong sân thiên hạ”?

Câu văn thể hiện sự say mê, bị cuốn hút bởi những món ăn dân dã, quen thuộc của quê hương. Tác giả không chỉ mệt vì hành trình đạp xe mà còn vì những cảm xúc dâng trào khi nhìn thấy những món ăn gợi nhớ tuổi thơ.

✍️ Câu 3: Hình ảnh “chuối ép mỏng vàng óng như vua nướng trên than hồng” có ý nghĩa gì?

Đây là hình ảnh so sánh giàu chất thơ, thể hiện sự trân trọng và yêu thích món ăn dân dã. Nó làm nổi bật vẻ đẹp của món chuối khô, đồng thời gợi cảm giác ấm áp, thân thuộc của không khí Tết quê nhà.

✍️ Câu 4: Qua câu nói của má “Người ta có đâu có nghĩa là mình phải có”, em hiểu gì về quan niệm sống của người mẹ?

Câu nói thể hiện sự giản dị, biết đủ và không chạy theo vật chất của người mẹ. Đó là bài học về sự trân trọng những gì mình đang có, sống đúng với hoàn cảnh và giữ gìn giá trị truyền thống.

✍️ Câu 5: Văn bản gợi cho em cảm xúc gì về tuổi thơ và quê hương?

Văn bản gợi cảm xúc hoài niệm, yêu thương và gắn bó sâu sắc với tuổi thơ và quê hương. Những hình ảnh bình dị như giàn phơi, món ăn dân dã, con đường làng… đều khơi dậy ký ức đẹp đẽ và tình cảm chân thành với nơi chôn nhau cắt rốn.

ĐỀ ĐỌC HIỂU

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: Mùa phơi sân trước 

MÙA PHƠI SÂN TRƯỚC

Hồi con nít thích đi xe đạp về nhà ngoại bằng con đường xóm cặp mé sông Rạch Rập. Đường đất dầm dãi suốt một em cần: mùa mưa, chúng’ gió chưởng thổi về mới ráo tạnh bùn lầy. Đến Chạp thì những chân trâu cũng bị bôi xoá hết, có thể đạp xe thong dong mà đã đời nghiêng ngó.

Mùa Chạp đi bảy cây số không nghe mỏi. Gió chướng khoác lên làng mạc một vẻ mơ màng, đường uốn lượn theo sống, và dòng chảy đó thẳm suốt thoắt ẩn thoắt hiện sau những lùm cây hoang dại. Dọc đường thấy Tết lấp ló khắp nơi, trên sân nhà người, trên những giản phơi.

Người nhà quê hồi mình con nit toàn người nghèo, sân nhà quê hồi ấy cũng rặt sân đất, nên nhà nào cũng cặm cái giàn trước nhà, suốt sáu tháng mưa, sân chim trong nước cũng có chỗ mà đem phơi củ, hay gối, chiếu. Những ngày hửng nắng trên giàn luôn có thứ gì đó ngóng nắng, khi cảm mốc, khi thì mở bột gạo thừa trong lúc làm bánh, khi thì mở cơm nguội hay mở lả dừa khô dùng để nhen lửa, mẩy trái đậu bắp giả làm giống cho mùa sau,… Phơi trên giàn mọi thứ khô mau, vì nắng ngun ngút trên mặt, gió lộng phía lung. Những nhà có sân rộng người ta còn phơi lúa trên giản, lúa khô đem vô bổ được mấy hôm đã thấy trên mặt sân xâm xấp nước lúa rảy” đã lấm tấm xanh. Qua nhà nào có trẻ nhỏ gặp những tấm chiếu manh con con nằm uống nắng.

Càng gần về cuối năm gian phơi càng bận rộn. Dầu dãi oằn mình suốt năm, giờ trên giản bày ra những món ngon chuẩn bị cho cuộc hội hè. Bánh phồng vừa quết xong, củ kiệu mới trộn đường xong, mứt gừng mới ngào nửa lửa,… thứ nào cũng ưa nắng. Nhưng cá khô mới là ưa nắng nhút hạng, mới cần thứ nắng rỏng rong như thắp lửa, thứ nắng như chảy trên đầu. Mùa Chạp cả làm địa người ta lớp rọng lớp làm mắm để ăn dần dần cho tới mùa lúa sau, mở xẻ làm khô ăn Tết. Mùa địa kéo dài cả tháng nghĩa là lúc nào giản phơi cũng đầy những con cả năm nhuộm nắng cho đỏ au da thịt.

Mùa Chạp thể nào cũng gặp người ta ép chuối khô. Chuối xiêm chín cây sẵn ngoài vườn, lột vỏ phơi một nắng, rồi đem ép mỏng. Không như cả khô rủ rê bọn ruổi nhặng đến mức phải đốt nắm nhang cắm nơi đầu gió để xua đuổi chúng, mật chuối tươm ướt rượt chỉ mê dụ quyển rũ lũ ong. Kéo tới dập dìu, lão đảo bay đầu như say, những con ong sa đà ở giản phơi cho đến khi những miếng chuối ép mỏng bắt đầu khô quắt, vàng óng như vua nướng trên than hồng. Chuối phơi đủ nắng có thể ăn tới ra Giêng, mật lặn vào trong vừa ăn vừa tợp miếng trà, hoặc ngào qua với khóm, me…. đem dầm nước đá uống cũng ngon thấu trời. Vậy là nước miếng mình tứa ra, trên từng mét đường về nhà ngoại. Tâm hồn mệt nhoài với những món ăn cực kì mời gọi trong sân thiên hạ. Đang thèm tô cơm nguội chan nước dừa ăn với khô lóc nướng thì bỗng nghĩ giờ phải có thịt kho Tàu để ăn với dưa kiệu nhà kia, rồi cái hủ mắm tép dầm nắng sát hàng rào làm mình nhớ nhung chuối chát, khế chua cùng với gừng xắt mịn thì mâm mút tắc” đỏ au đằng kia làm mình làm chết một cách lim dim như tụi kiến Chân rõ ràng không mỏi, nhưng tâm rã rời, cứ chạy theo đeo đuổi mốt trên những giàn phơi. Hụt hơi, chới với. Có lần về nhà kêu má Tết này làm những món này nảy, những món mà mình nhìn thấy mang theo trên suốt chặng đường từ nhà ngoại về. Má cười, người ta có đâu có nghĩa là mình phải có.

Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại gì?

  1. Truyện cổ tích
  2. Tản văn
  3. Truyện ngắn
  4. Truyện đồng thoại

Câu 2. Văn bản trên được kể theo ngôi thứ mấy?

  1. Ngôi thứ nhất
  2. Ngôi thứ hai
  3. Ngôi thứ ba
  4. Ngôi kể khác

Câu 3. Người dân quê của tác giả phơi trên sân những gì?

  1. “củi”, “gối”, “chiếu” hay “cám mốc”, “mớ bột gạo, mớ “cơm nguội thừa”,
  2. “bánh gừng”, “củ kiệu”, mứt “gừng”
  3. Cá khô, chuối xiêm
  4. Cả ba đáp án trên.

Câu 4. Từ “má” là từ địa phương của miền nào?

  1. Miền Bắc
  2. Miền Trung
  3. Miền Tây
  4. Tây Nguyên

Câu 5. Chủ đề của văn bản là:

  1. Những món ăn đặc trưng của quê hương
  2. Những kỉ niệm gắn với cảnh đẹp của quê hương
  3. Kỉ niệm quê hương, về thiên nhiên cảnh vật
  4. Những loài hoa đẹp của quê hương

Câu 6. Em cảm nhận được điều gì về cái “tôi” của tác giả đã thể hiện trong văn bản?

  1. Đó là một cái “tôi” nhẹ nhàng sâu lắng, đầy hoài niệm qua những câu chữ nhẹ nhàng, những kỉ niệm tuổi thơ gắn với sân phơi kí ức.
  2. Đó là một cái “tôi” sôi nổi, hào hứng đầy nhiệt huyết khi nhớ về những kỉ niệm của tuổi thơ.
  3. Đó là một cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác
  4. Đó là một cái “tôi” khát khao sống, khát khao yêu thương.

Câu 7. Giá trị nội dung của văn bản là:

  1. Văn bản đã kể lại cảm xúc của tác giả khi nhớ về tuổi thơ đạp xe về nhà ngoại
  2. Văn bản đã kể lại những kỉ niệm của tác giả gắn liền với những món ăn quê hương.
  3. Văn bản đã kể lại những kỉ niệm của tác giả gắn liền với những trò chơi dân gian.
  4. Văn bản đã ghi lại cảm xúc của tác giả khi nhớ về tuổi thơ đạp xe về nhà ngoại: đâu đâu cũng thấy người ta phơi đồ trên sân.

Câu 8. Tìm phó từ trong câu “Tâm hồn mệt nhoài với những món ăn cực kì mới gọi trong sân thiên hạ.”

  1. Những
  2. Mới
  3. Trong
  4. Sân

Câu 9. Nhận xét về chất trữ tình trong văn bản.

Câu 10. Văn bản giúp em hiểu gì về tình cảm của người viết với quê hương.

HƯỚNG DẪN CHẤM

1.  B 2.A 3.D 4.C 5.C 6.A 7.D 8.A

 Câu 9. Nhận xét về chất trữ tình trong văn bản:

– Chất trữ tình nhẹ nhàng

– Chất trữ tình góp phần thể hiện cảm xúc của tác giả, tạo cho bài văn mạch chất trữ tình nên thơ.

Câu 10. Văn bản giúp em hiểu về tình cảm của người viết với quê hương:

Văn bản cho thấy sự gắn bó sâu nặng của tác giả – người con xa quê – với quê nhà. Đó là cảm xúc hoài niệm nhớ nhung về tuổi thơ, tình cảm yêu quê hương tha thiết. Với nhà văn, những hình ảnh, đặc trưng của quê hương luôn khắc ghi trong tâm trí.

You may also like...

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *