Tìm hiểu truyện ngắn Những thành phố biển nghiêng nghiêng tháp Chàm trước khi làm bài đọc hiểu
Tác giả: Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên)
Tác phẩm: An ninh môi trường và hoà bình ở Biển Đông (NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2019)
Nội dung:
- Đoạn trích cung cấp thông tin về sự đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật biển phong phú ở Biển Đông.
- Biển Đông có hơn 160.000 loài sinh vật biển, trong đó có 10.000 loài thực vật và 260 loài chim biển. Trữ lượng động vật biển ước tính khoảng 32,5 tỉ tấn, với cá chiếm 86%.
- Ngoài cá, còn có nhiều loài quý hiếm như đồi mồi, rắn biển, chim biển, thú biển và rong biển có giá trị kinh tế cao.
- Riêng vùng biển Việt Nam có khoảng 638 loài rong biển, là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và dược liệu đặc trưng cho vùng biển nhiệt đới.
- Văn bản sử dụng số liệu cụ thể để tăng tính thuyết phục, thể hiện rõ đặc trưng của văn bản thông tin.
- Tác giả đưa ra cái nhìn toàn diện về sự đa dạng loài bằng cách liệt kê chi tiết các nhóm sinh vật biển, không chỉ tập trung vào cá mà còn mở rộng sang thực vật và các loài quý hiếm.
- So với đoạn thơ của Huy Cận trong “Đoàn thuyền đánh cá”, văn bản thông tin chú trọng đến tính chính xác và số liệu, còn văn bản văn học thiên về cảm xúc, hình ảnh và gợi mở thẩm mỹ.
- Mối quan hệ giữa “nguồn lợi” và “đa dạng loài” là tương hỗ: đa dạng loài càng cao thì nguồn lợi càng lớn, và ngược lại, sự suy giảm đa dạng sẽ ảnh hưởng đến nguồn lợi.
- Những thông tin về sinh vật biển giúp nâng cao nhận thức về giá trị của Biển Đông, thúc đẩy hành động bảo vệ môi trường biển và chủ quyền lãnh thổ.
- Các từ ngữ liên kết như “còn có”, “ngoài ra”, “riêng”, “đây là” giúp đoạn trích mạch lạc, thống nhất. Nếu bỏ đi, đoạn văn sẽ trở nên rời rạc, thiếu liên kết logic.
ĐỀ ĐỌC HIỂU
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu: An ninh môi trường và hoà bình ở Biển Đông
Đọc đoạn trích sau và trỏ lời các câu hỏi:
Biển Đông có đa dạng loài sinh vật biển rất cao và nguồn lợi sinh vật biển phong phú với hơn 160 000 loài, bao gồm 10 000 loài thực vật và 260 loài chim biển. Trữ lượng các loài động vật biển ước tính khoảng 32,5 tỉ tấn, trong đó các loài cá chiếm 86% tổng trữ lượng. Trong vùng biển này còn có nhiều loài động vật quý hiếm, như đồi mồi, rắn biển, chim biển và thú biển. Ngoài ra, Biển Đông còn cung cấp nhiều loài rong biển có giá trị kinh tế. Riêng biển Việt Nam đã có khoảng 638 loài rong biển. Đây là nguồn thực phẩm giàu dinh dưỡng và là nguồn dược liệu phong phú đặc trưng cho một vùng biển nhiệt đới.
(Theo Nguyễn Chu Hồi (Chủ biên), An ninh môi trường và hoà bình ở Biển Đông, NXB Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2019, tr. 34 – 35)
- Thông tin chính mà đoạn trích đưa đến cho độc giả là gì?
2.Đặc trưng nào của văn bản thông tin đã được thể hiện đậm nét qua đoạn trích?
- Cái nhìn toàn diện của người viết về sự “đa dạng loài” ở Biến Đông đã được thể hiện như thế nào trong đoạn trích?
- Hãy so sánh cách nói về “biển bạc” trong đoạn trích trên và trong đoạn thơ sau đây của Huy Cận để rút ra nhận xét về sự khác biệt giữa văn bản thông tin và văn bản văn học:
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quấy trăng vàng choé
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.
(Đoàn thuyền đánh cá)
- Em suy nghĩ như thế nào về mối quan hệ giữa vấn đề “nguồn lợi” và vấn đề “đa dạng loài sinh vật biển”?
- Những thông tin về sự phong phú của sinh vật biển ở Biển Đông có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hành động của chúng ta hôm nay?
- Nếu bỏ đi các từ ngữ như còn có (ở câu 3), ngoài ra (ở câu 4), riêng (ở câu 5), đây là (ở câu 6), sự liên kết trong đoạn trích sẽ bị ảnh hưởng như thế nào?
HƯỚNG DẪN CHẤM
- Đoạn trích cho biết sự đa dạng loài cũng như trữ lượng dồi dào của sinh vật biển ở Biển Đông và lợi ích kinh tế của việc khai thác nguồn tài nguyên này.
- Sử dụng nhiều số liệu cụ thể để làm tăng tính thuyết phục của vấn đề được nói tới, đó là một trong những đặc trưng nổi bật của văn bản thông tin. Trong đoạn trích này, đặc trưng đó đã được thể hiện rõ nét, khi tác giả đưa ra nhiều con số chứng minh Biển Đông là nơi có sự đa dạng sinh học cao và trữ lượng sinh vật biển rất lớn.
- Đoạn trích thực sự đã đưa đến cái nhìn toàn cảnh về sự “đa dạng loài” ở Biển Đông. Ngoài việc nêu tổng số loài, người viết còn kể chỉ tiết về số lượng các loài thực vật và liệt kê hàng loạt loài động vật quý hiếm khác ngoài cá (cá vốn là loài có trữ lượng lớn nhất).
- Đoạn trích đang phân tích và đoạn thơ của Huy Cận không thuộc cùng một loại văn bản. Đoạn trích (Biển Đông có… nhiệt đới) thuộc loại văn bản thông tin, rất quan tâm tới tính xác thực của điều được nói tới, vì vậy, đã chú ý đưa ra hàng loạt số liệu cụ thể. Còn đoạn thơ của Huy Cận thuộc loại văn bản văn học, tuy có sử dụng hình thức liệt kê nhưng không nhằm đưa ra một danh sách đầy đủ về đối tượng mà chỉ cốt gợi mở và khơi dậy những rung động thẩm mĩ ở độc giả.
- Đoạn trích gợi lên cùng lúc hai vấn đề: sự đa dạng loài sinh vật biển và nguồn lợi sinh vật biển. Giữa hai vấn để này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nguồn lợi càng lớn nếu sự đa dạng càng lớn. Ngược lại, nguồn lợi sẽ giảm đi nếu sự đa dạng vốn có bị đe doa.
- Những thông tin nói về sự phong phú của sinh vật biển ở Biển Đông giúp ta nhận thức được đầy đủ hơn về tầm quan trọng của Biển Đông đối với tương lai phát triển của đất nước. Đồng thời, chúng khơi dậy ở ta ý thức bảo vệ chủ quyền biển đảo, quyết không để bất cứ thế lực ngoại bang nào xâm phạm, chiếm đoạt phần lãnh hải thiêng liêng của Tổ quốc.
- Các từ ngữ như còn có (ở câu 3), ngoài ra (ở câu 4), riêng (ở câu 5), đây là (ở câu 6) đảm nhiệm việc liên kết các câu văn trong đoạn trích. Nếu thiếu những từ ngữ liên kết này, đoạn trích sẽ rời rạc, thiếu thống nhất.